TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG KHU VỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN NGỌC THANH
HÀ NỘI – 2008
Mở đầu
MỤC LỤC
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1.1 Tiền lương 8
1.1.1 Khái niệm 8
1.1.2 Chức năng – đặc điểm của tiền lương 12
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương 16
1.2. Chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước 17
1.2.1 Khái niệm 17
1.2.2 Nội dung chính sách tiền lương 23
1.2.3 Vai trò và tác động của chính sách tiền lương trong khu 30
vực nhà nước đối với nền kinh tế
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về chính sách tiền lương 33
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước 33
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam 42
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay
2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội và tính cấp thiết của việc cải cách 45
chính sách tiền lương
45
2.1.1 Bối cảnh kinh tế xã hội
2.1.2 Sự cần thiết đổi mới chính sách tiền lương 47
2.2 Thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở
Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay 48
2.2.1 Quá trình cải cách chính sách tiền lương trong khu vực
nhà nước 48
2.2.2 Một số vấn đề về tiền lương trong khu vực nhà nước ở
Việt Nam 58
2.3 Đánh giá chung về chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam 67
2.3.1 Thành tựu 68
2.3.2 Hạn chế
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cải cách chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới
3.1 Dự báo triển vọng của nền kinh tế và quan điểm cải cách
chính sách tiền lương ở Việt Nam 70
3.1.1 Triển vọng kinh tế Việt Nam 73
3.1.2 Quan điểm cải cách chính sách tiền lương 75
3.2 Một số giải pháp cải cách chính sách tiền lương 75
3.2.1 Những giải pháp chung 77
3.2.2 Những giải pháp cải cách chính sách tiền lương khu vực
doanh nghiệp Nhà nước 78
3.2.3 Những giải pháp cải cách chính sách tiền lương khu vực
CÁC TỪ VIẾT TẮT
AFTA Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
APEC Diễn đàn Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BHXH Bảo hiểm xã hội
CPI Chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
HCSN Hành chính sự nghiệp
KHKT Khoa học kỹ thuật
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
LĐ-TB-XH Lao động – Thương binh – Xã hội
NSLĐ Năng suất lao động
WTO Tổ chức Thương mại thế giới\
Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
:
Việt Nam đang tham gia tích cực vào quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO và tổ chức hội nghị cấp cao lãnh đạo kinh tế APEC 14 vào tháng 11/2006 đánh dấu một bước tiến vượt bậc của quốc gia trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Đóng góp đáng kể trong tiến trình đó không thể không kể đến vai trò của Nhà nước trong quản lý điều hành các chính sách vĩ mô: chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách việc làm,.. . Tuy nhiên, chính sách tiền lương – một trong những chính sách vĩ mô còn nhiều bất cập – đang đứng trước những thách thức lớn lao đòi hỏi bắt buộc phải cải cách nhằm bảo đảm tính cạnh tranh của thị trường lao động, đồng thời bảo đảm được quyền lợi của người lao động trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Bắt đầu từ năm 1993 đến nay, chính sách tiền lương đã qua nhiều lần cải cách trong đó có thay đổi mức tiền lương tối thiểu và điều chỉnh lại cơ cấu thang lương, bảng lương nhưng vẫn chưa đáp ứng được những mục tiêu đặt ra. Tiền lương tối thiểu trên thực tế chưa đảm bảo được mức sống tối thiểu như đúng ý nghĩa của nó, còn có sự phân biệt giữa tiền lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp – điều này mâu thuẫn với nguyên tắc “đối xử quốc gia của WTO”. Hệ thống thang bảng lương phức tạp nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng tất cả các ngành nghề mới xuất hiện ngày càng nhiều trong nền kinh tế thị trường. Tiền lương vẫn còn mang tính bình quân chưa thực sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh, chưa trở thành nguồn thu nhập chính của người lao động. Cơ chế quản lý tiền lương còn chứa đựng nhiều yếu tố bất hợp lý, tiền lương tối thiểu do Nhà nước công bố chưa trở thành lưới an toàn bảo đảm lợi ích cho người lao động nói chung. Lương trong khu vực công mặc dù đã được cải thiện đáng kể vẫn có xu hướng bị kìm nén hơn khu vực ngoài Nhà nước.
Trước những yêu cầu thay đổi cấp bách, Đảng và Nhà nước đã chủ trương về đổi mới chính sách tiền lương theo hướng kinh tế thị trường, trong đó phải coi tiền lương là giá cả sức lao động, được hình thành trên thị trường theo nguyên tắc thoả thuận, tiền lương phải là động lực đối với người lao động và là điều kiện để doanh nghiệp hạch toán đúng, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Để có thể thực hiện sự đổi mới này một cách có hiệu quả cần có cái nhìn tổng quát về tình hình thực trạng, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác cũng như đề ra được các giải pháp và kiến nghị có tính khả thi để cải cách chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước trong thời gian tới. Đó là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu:
Trên thế giới, các nghiên cứu về chính sách tiền lương khá đa dạng và phong phú. Có thể điểm qua những nghiên cứu như: “The impact of the minium wage” của Jared Bernstein và John Schmitt, Viện chính sách kinh tế, Washington, Mỹ; “Wage policy, employee turnover and productivity” của Arnaud Chevalier, W. S. Siebert, Tarja Viitanen, Viện Nghiên cứu thay đổi xã hội, Trường Đại học Dublin và Viện Nghiên cứu Lao động Đức; v.v… Tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu này mới tập trung ở lĩnh vực tiền lương tối thiểu. Điều này chưa đủ để áp dụng tại Việt Nam, nơi rất cần vai trò quản lý Nhà nước về tiền lương để đưa luật pháp lao động được thực thi đầy đủ. Trên thực tế, tại Bộ LĐTB&XH – cơ quan thay mặt Chính phủ quản lý và điều hành chính sách tiền lương, cũng đã có nhiều đề tài nghiên cứu thực trạng chính sách tiền lương. Tuy nhiên những đề tài này thường chỉ đi sâu vào một khía cạnh hoặc một phạm vi nhỏ của chính sách tiền lương. Ví dụ: Đề tài cấp Bộ năm 1998 “Cơ chế quản lý tiền lương/tiền công đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài” do PTS. Nguyễn Quang Huề, Trưởng phòng Tiền lương-Tiền công-Mức sống – Viện Khoa học Lao động và Xã hội làm chủ nhiệm; Đề tài cấp Bộ năm 1997 “Cơ chế trả lương và quản lý Nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh” cũng do PTS.Nguyễn Quang Huề làm chủ nhiệm; Đề tài cấp Bộ 1994 “Nghiên cứu tiền lương tối thiểu theo vùng” do TS Nguyễn thị Lan Hương, Phó Viện trưởng Viện KHLĐ&XH làm chủ nhiệm, Đề tài cấp Bộ 2003 “Xác định mức lương tối thiểu trong thời kỳ 2006-2010 và các biện pháp giám sát để điều chỉnh mức lương tối thiểu phù hợp với phát triển kinh tế xã hội, với thị trường lao động” do Hoàng Minh Hào, Phó Vụ trưởng Vụ tiền lương-tiền công làm chủ nhiệm, Đề tài cấp Bộ 2003 “Xác định những nguyên tắc cơ bản xây dựng thang lương, bảng điểm, định mức lao động trong các doanh nghiệp” do Phạm Minh Huân, Vụ trưởng Vụ tiền lương-tiền công làm chủ nhiệm, v.v… Ngoài ra, những đề tài này ít có sự tổng hợp kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, những nước có cùng trình độ phát triển với Việt Nam. Đề án cải cách tiền lương do Bộ LĐTBXH chủ trì vẫn còn trong giai đoạn triển khai từng bước và vẫn chưa đặt được mức độ thành công như mong muốn bởi những tác động kinh tế xã hội mà nó tạo nên.
Như vậy cần thiết có một đề tài nghiên cứu chính sách tiền lương một cách tổng quát với đầy đủ ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đề tài đi sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận liên quan đến chính sách tiền lương, các bài học kinh nghiệm trên thế giới, cùng với việc đánh giá những sự hợp lý cũng như bất cập trong chính sách tiền lương hiện hành ở khu vực nhà nước của Việt Nam sẽ đưa ra những khuyến nghị, giải pháp cho chính sách tiền lương trong thời gian tới.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam và một số kinh nghiệm từ các nước trên thế giới, đề tài
đưa ra được một số giải pháp phù hợp cho cải cách chính sách tiền lương trong khu vực này ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
– Đối tượng : Luận văn nghiên cứu thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam.
– Phạm vi: Trong khoảng thời gian 1993-2007.
Khu vực nhà nước trong luận văn này chỉ bao gồm khu vực hành chính, sự nghiệp, và các doanh nghiệp nhà nước, không bao gồm các lực lượng vũ trang (Quân đội và công an).
5. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản của phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích-tổng hợp, đối chiếu, so sánh. Số liệu sử dụng trong luận văn sẽ được lấy từ các bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục thống kê và Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
6. Dự kiến đóng góp của đề tài:
• Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, khảo cứu kinh nghiệm của nước ngoài về chính sách tiền lương.
• Làm rõ thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2007.
• Đề ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm cải cách chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1993 đến nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp về cải cách chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới
Mặc dù đã hết sức nỗ lực và được sự giúp đỡ của các thày cô, đồng nghiệp và gia đình, do còn hạn chế về tài liệu, số liệu và thời gian nghiên cứu, luận văn của tôi vẫn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết cần sửa đổi và bổ sung hoàn thiện. Tôi mong nhận được sự quan tâm và góp ý của các thày cô, đồng nghiệp và tất cả những bạn đọc quan tâm đến chủ đề này.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG TRONG KHU VỰC NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2 Tiền lương
1.2.1 Khái niệm :
1.2.1.1 Tiền lư ơng/tiền c ông
Trong xã hội tư sản, sức lao động biến thành hàng hoá nên tiền công chính là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức lao động. Song dưới CNTB, tiền công che dấu sự bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. C.Mác viết: “Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của sức lao động, mà chỉ là một hình thái cải trang của giá trị hay giá cả sức lao động”1. Như vậy, tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân nhìn bề ngoài như rất sòng phẳng song kỳ thực nó đã che dấu một phần lao động thặng dư mà nhà tư bản cướp không của công nhân, do giá cả sức lao động (biểu hiện qua tiền công) thường nhỏ/thấp hơn giá trị sức lao động bởi luôn có nạn thất nghiệp.
Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất nên tiền công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả sức lao động và là một phạm trù của sản xuất, yêu cầu phải tính đúng, tính đủ trước khi thực hiện quá trình lao động sản xuất. Sức lao động là hàng hoá, cũng như mọi hàng hoá khác, nên tiền công là phạm trù của trao đổi, nó đòi hỏi phải ngang với giá cả các tư liệu sinh hoạt cần thiết nhằm tái sản xuất sức lao động.
Sức lao động là một yếu tố của quá trình sản xuất cần phải bù đắp sau khi đã hao phí, nên tiền công cần phải được thực hiện thông qua quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, dựa trên hao phí lao động, hiệu
TRUNG TÂM LUẬN VĂN MBA-VIP VIẾT THUÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ & TIẾN SĨ CHẤT LƯỢNG CAO.
Liên hệ với chúng tôi:
- Hotline: 0926.708.666
- Zalo: 0926.708.666.
- Email:Lamthueluanvan2014@gmail.com
Để tải bài đầy đủ xin khách hàng ấn vào đây: